Địa chất Đệ tứ Việt Nam / Nguyễn, Địch Dỹ
Tác giả : Nguyễn, Địch Dỹ
Nhà xuất bản : H. : ĐHQGHN
Năm xuất bản : 2017
Chủ đề : 1. Địa tầng Đệ tứ Việt Nam. 2. Hoạt động núi lửa trong kỷ Đệ tứ. 3. Khoáng sản Đệ tứ ở Việt Nam. 4. Sự thay đổi mực nước biển trong Đệ tứ trên thềm lục địa Việt Nam. 5. Article.
Thông tin chi tiết
Tóm tắt : | Địa chất Đệ tứ Việt Nam bao gồm địa chất Đệ tứ phần đất liền và phần ngập nước. Theo quan điểm hệ thống địa chất Đệ tứ được tiếp cận trên các lĩnh vực sau đây:1/ Địa tầng 2/ Sự thay đổi mực nước biển;3/ Chuyển động kiến tạo; 4/ Hoạt động phun trào; 5/ Khoáng sản Đệ tứ Các thành tạo trầm tích Đệ tứ trên đất liền và dưới thềm lục địa Việt Nam có quan hệ nhân quả với sự thay đổi mực nước biển và chuyển động kiến tạo. Sự thay đổi mực nước biển liên quan đến các chu kỳ băng hà và gian băng: - Băng hà Gunz (1,9 - 1,4 triệu năm cách ngày nay): xảy ra vào đầu Pleistocen sớm (Q11) gây nên quá trình biển thoái trên vùng biển Việt Nam, lúc này đường bờ cổ nằm ở độ sâu 2000 – 2500m. - Gian băng Gunz – Mindel (1,4-0,8 triệu năm cách ngày nay (Q11)): xảy ra vào cuối Pleistocen sớm (Q11), kết quả là quá trình biển tiến và tạo thềm biển ở độ cao 80 – 90m bắt gặp ở ven biển miền Trung. - Băng hà Mindel (800 - 402) ngàn năm cách ngày nay): Xảy ra vào đầu Pleistocen giữa phần sớm (Q12a) gây nên quá trình biển thoái lần thứ 2, ghi dấu đường bờ cổ ở độ sâu 700 – 1000m. - Gian băng mindel – Riss (402–191 ngàn năm cách ngày nay(Q12a)): xảy ra vào cuối Pleistocen giữa phần sớm (Q12a) gây nên quá trình biển tiến và tạo thềm biển ở độ cao 40 -50m. Băng hà Riss (191 – 130 ngàn năm cách ngày nay): xảy ra vào đầu Pleistocen giữa phần muộn (Q12b) tương ứng với chu kỳ biển thoái lần thứ 3 tạo nên đường bờ cổ ở độ sâu 400 – 500m. - Gian băng Riss – Wurm 1 (130 – 83 ngàn năm cách ngày nay (Q12b)): xảy ra chu kỳ biển tiến cuối pleistocen giữa phần muộn (Q12b) tạo thềm biển ở độ cao 25 – 30m. - Băng hà Wurm 1 (83 – 50 ngàn năm cách ngày nay): xảy ra vào đầu pleistocen muộn phần sớm (Q13a) tương ứng với chu kỳ biển thoái lần thứ 4 tạo nên đường bờ cổ ở độ sâu 200 – 300m nước. - Gian băng Wurm 1 – Wurm 2 (50 – 40 ngàn năm cách ngày nay (Q13a)): xảy ra vào cuối Pleistocen muộn phần sớm (Q13a) gây nên biển tiến “Vĩnh Phúc” và tạo thềm biển ở độ cao 10 – 15m. - Băng hà Wurm 2 (40 – 18 ngàn năm cách ngày nay): xảy ra biển thoái lần thứ 5 vào đầu Pleistocen muộn phần muộn tạo nên đường bờ cổ ở độ sâu 100 – 120m nước. - Biển tiến Flandrian (18 – 5 ngàn năm (Q13b – Q2)): xảy ra vào cuối Pleistocen muộn đến Holocen (Q13b – Q2) tạo nên đường bờ cổ ở độ sâu 50 – 60m và 25 – 30m nước. Trên đất liền thềm biển và ngấn sóng vỗ của mực nước biển cao nhất đạt tới độ cao 5m. - Biển thoái Holocen muộn (từ 5 ngàn năm đến 1 ngàn năm). Sự thay đổi mực nước biển đã làm thay đổi môi trường tích tụ trầm tích theo chu kỳ, đồng thời tạo nên các chu kỳ trầm tích tương ứng với các phức tập (sequence). Nếu lấy miền hệ thống trầm tích biển thấp (LST) làm tập trầm tích khởi đầu và miền hệ thống trầm tích biển cao là tập kết thúc thì mỗi phức tập tương đương với một chu kỳ trầm tích với 3 đặc trưng cơ bản từ dưới lên như sau: 1/ Thành phần độ hạt: biến thiên từ thô đến mịn 2/ Thành phần thạch học: biến thiên từ đa khoáng đến ít khoáng và đơn khoáng 3/ Tướng trầm tích có sự thay thế từ nhóm tướng lục địa đến nhóm tướng biển và kết thúc là nhóm tướng châu thổ |
Thông tin dữ liệu nguồn
Thư viện | Ký hiệu xếp giá | Dữ liệu nguồn |
---|---|---|
Đại học quốc gia Hà Nội |
|
https://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/18060 |